KhaKhuTru
Become a Gentleman
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
1. Một số khái niệm
Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ vọng liên quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trò quyết định đến cơ hội cuộc sống của con người, xác định vai trò của họ trong xã hội và trong nền kinh tế. Giới chỉ khác biệt về xã hội và quan hệ về quyền lực giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa phụ nữ và nam giới được hình thành và khác nhau ngay trong một nền văn hóa, giữa các nền văn hóa và thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt này được nhận thấy một cách rõ rang trong vui chơi, trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn và thuận lợi của các giới tính.
Theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 6 Điều 5 của Luật bình đẳng giới thì: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và hưởng thụ như nhau về thành quả của sự phát triển của cộng đồng về thành quả của phát triển đó. Bình đẳng giới đề cập tới sự bình đẳng về quyền, trách nhiệm và cơ hội của nam giới và nữ giới, trẻ em gái và trẻ em trai. Theo Luật Bình đẳng giới, thì mọi người, dù là nam giới hay phụ nữ, với tư cách là các cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để phát huy tiềm năng sắn có của mình cũng như có quyền thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển chung như:
- Tiếp cận và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội...)
- Tham gia quyết định những vấn đề liên quan tới việc sử dụng nguồn lực.
- Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
- Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.
Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người đóng góp và hướng thụ từ sự phát triển của gia đình của đất nước.
2. Bất bình đẳng và các thước đo bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau và được đo bằng các chi tiêu khác nhau. Trong báo cáo phát triển con người của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã đưa ra 2 chỉ số:
- Chỉ số phát triển giới (GDI). Chỉ số này phản ánh những thành tựu trong các khía cạnh tương tự như HDI (tuổi thọ bình quân, giáo dục, thu nhập) nhưng lại điều chỉnh các kết quả đó theo bất bình đẳng giới. Trong mỗi nước, nếu giá trị của GDI càng gần với HDI thì sự khác biệt theo giới tính càng ít (trường hợp của Na Uy và Singapore-Bảng 4.9). Nếu thứ hạng GDI thấp hơn thứ hạng HDI cho thấy sự phân phối không bình đẳng và phát triển con người giữa nam và nữ (Lucxămbua và Ai Cập Xê út). Ngược lại, nếu thứ hạng GDI là cao hơn, cho thấy một sự phân phối bình đẳng hơn về phát triển con người giữa nam và nữ.
I. THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
Bình đẳng giới là lĩnh vực rộng và có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực do vậy là bất bình đẳng giới cũng tồn tại ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực. Để tìm hiểu hết thực trạng của bất bình đẳng giới là một điều hết sức khó khăn nhưng nhìn sâu trong một số lĩnh vực thì chúng ta cũng có thể hiểu thực trạng của bất bình đẳng giới đang tồn tại trong xã hội của Việt Nam như thế nào. Sau đây là tìm hiểu về thực trạng bất bình đẳng giới một số ngành:
1. Tỷ số giới tính khi sinh (SRB)
Tỷ lệ giới tính khi sinh được đo bằng số trẻ sơ sinh trai trên một trăm trẻ sơ sinh gái được sinh ra. Tỷ lệ này được xem là bình thường khi có 105 đến 108 bé trai được sinh ra so với 100 bé gái, bởi vì tỷ lệ chết ở trẻ trai thường cao hơn trẻ gái một chút do vậy khi đến tuổi trưởng thành số nam và nữ sẽ cân bằng nhau. Tỷ số sinh khi sinh có thể coi là một trong các chỉ số để đo vị thế của phụ nữ ở khía cạnh bất bình đẳng giới, tỷ số này càng cao rõ rang nhận thấy đây là hậu quả của tư tưởng thích con trai hơn con gái và phá thai có sự lựa chọn giới tính. Bất kỳ một sự thay đổi đáng kể nào của tỷ suất này chênh lệch khỏi mức sinh học bình thường điều này phản ánh những can thiệp có chủ định ở các mức độ khác nhau đến sự mất cân bằng tư nhiên. Ở Việt Nam tỷ số giới tính khi sinh tăng rất nhanh trong những năm gần đây được thể hiện như sau:
Tải về bản đầy đủ tại đây
1. Một số khái niệm
Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ vọng liên quan đến nam và nữ. Nó được coi là phạm trù xã hội có vai trò quyết định đến cơ hội cuộc sống của con người, xác định vai trò của họ trong xã hội và trong nền kinh tế. Giới chỉ khác biệt về xã hội và quan hệ về quyền lực giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa phụ nữ và nam giới được hình thành và khác nhau ngay trong một nền văn hóa, giữa các nền văn hóa và thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt này được nhận thấy một cách rõ rang trong vui chơi, trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn và thuận lợi của các giới tính.
Theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 6 Điều 5 của Luật bình đẳng giới thì: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và hưởng thụ như nhau về thành quả của sự phát triển của cộng đồng về thành quả của phát triển đó. Bình đẳng giới đề cập tới sự bình đẳng về quyền, trách nhiệm và cơ hội của nam giới và nữ giới, trẻ em gái và trẻ em trai. Theo Luật Bình đẳng giới, thì mọi người, dù là nam giới hay phụ nữ, với tư cách là các cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để phát huy tiềm năng sắn có của mình cũng như có quyền thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển chung như:
- Tiếp cận và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội...)
- Tham gia quyết định những vấn đề liên quan tới việc sử dụng nguồn lực.
- Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
- Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.
Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người đóng góp và hướng thụ từ sự phát triển của gia đình của đất nước.
2. Bất bình đẳng và các thước đo bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau và được đo bằng các chi tiêu khác nhau. Trong báo cáo phát triển con người của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã đưa ra 2 chỉ số:
- Chỉ số phát triển giới (GDI). Chỉ số này phản ánh những thành tựu trong các khía cạnh tương tự như HDI (tuổi thọ bình quân, giáo dục, thu nhập) nhưng lại điều chỉnh các kết quả đó theo bất bình đẳng giới. Trong mỗi nước, nếu giá trị của GDI càng gần với HDI thì sự khác biệt theo giới tính càng ít (trường hợp của Na Uy và Singapore-Bảng 4.9). Nếu thứ hạng GDI thấp hơn thứ hạng HDI cho thấy sự phân phối không bình đẳng và phát triển con người giữa nam và nữ (Lucxămbua và Ai Cập Xê út). Ngược lại, nếu thứ hạng GDI là cao hơn, cho thấy một sự phân phối bình đẳng hơn về phát triển con người giữa nam và nữ.
I. THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
Bình đẳng giới là lĩnh vực rộng và có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực do vậy là bất bình đẳng giới cũng tồn tại ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực. Để tìm hiểu hết thực trạng của bất bình đẳng giới là một điều hết sức khó khăn nhưng nhìn sâu trong một số lĩnh vực thì chúng ta cũng có thể hiểu thực trạng của bất bình đẳng giới đang tồn tại trong xã hội của Việt Nam như thế nào. Sau đây là tìm hiểu về thực trạng bất bình đẳng giới một số ngành:
1. Tỷ số giới tính khi sinh (SRB)
Tỷ lệ giới tính khi sinh được đo bằng số trẻ sơ sinh trai trên một trăm trẻ sơ sinh gái được sinh ra. Tỷ lệ này được xem là bình thường khi có 105 đến 108 bé trai được sinh ra so với 100 bé gái, bởi vì tỷ lệ chết ở trẻ trai thường cao hơn trẻ gái một chút do vậy khi đến tuổi trưởng thành số nam và nữ sẽ cân bằng nhau. Tỷ số sinh khi sinh có thể coi là một trong các chỉ số để đo vị thế của phụ nữ ở khía cạnh bất bình đẳng giới, tỷ số này càng cao rõ rang nhận thấy đây là hậu quả của tư tưởng thích con trai hơn con gái và phá thai có sự lựa chọn giới tính. Bất kỳ một sự thay đổi đáng kể nào của tỷ suất này chênh lệch khỏi mức sinh học bình thường điều này phản ánh những can thiệp có chủ định ở các mức độ khác nhau đến sự mất cân bằng tư nhiên. Ở Việt Nam tỷ số giới tính khi sinh tăng rất nhanh trong những năm gần đây được thể hiện như sau:
Tải về bản đầy đủ tại đây