KhaKhuTru
Become a Gentleman
LỜI NÓI ĐẦU
“Thương hiệu cà phê Việt bao giờ xứng với tiềm năng” ??? “ Làm thương hiệu không phải là dễ” ??? Đó là hai trong số rất nhiều những câu hỏi, những suy nghĩ băn khoăn của mỗi người dân Việt khi nhắc đến ngành nông sản cà phê nước nhà. Xuất phát từ mâu thuẫn thực tiễn, Việt Nam là nước đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê trên thế giới, nhưng giá trị xuất khẩu của chúng ta lại rất thấp. Hay chúng ta thấy việc ra đời hàng loạt sản phẩm cà phê trên thị trường thực chất mới chỉ là nhãn hiệu sản phẩm. Từ nhãn hiệu đến phát triển một thương hiệu là một vấn đề đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính, con người, chiến lược kinh doanh, tiếp thị hiệu quả…Quả thực, bài toán để có thương hiệu Việt khẳng định trên thị trường quốc tế vẫn còn vô cùng khó.
Bên cạnh đó, theo kết quả của nhiều cuộc điều tra, thị trường cà phê Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng. Tiêu biểu như theo Hiệp hội cà phê thế giới, sản lượng tiêu thụ cà phê nội địa của Việt Nam chiếm khoảng 5% (năm 2009), còn rất thấp so với mức tiêu thụ 25,16% của các quốc gia sản xuất cà phê trên thế giới Mặt khác, Việt Nam là cường quốc cà phê thứ 2 trên thế giới nhưng thực tế chưa có nhiều sản phẩm chế biến từ cà phê được giới thiệu trên thị trường. Do vậy thị trường này còn rất thu hút các doanh nghiệp trong nước lại đẩy mạnh đầu tư xây dựng thương hiệu trên thị trường sản phẩm cà phê nói chung.
Ngoài ra, theo cuộc khảo sát của Công ty Nghiên cứu thị trường Euromonitor, thị trường cà phê hòa tan Việt Nam tăng trưởng mạnh trong những năm trở lại đây, bình quân 7,9%/năm trong giai đoạn 2003-2008 và được dự báo sẽ tăng trưởng 10,5%/năm trong giai đoạn 2008-2013. Chính vì thế, các nhà sản xuất cà phê hòa tan trong nước đã không tiếc kinh phí đầu tư cũng như quảng bá sản phẩm của mình để chiếm lĩnh thị trường. Thị trường cà phê hoà tan Việt Nam hiện nay thị phần chủ yếu của thương hiệu chính: hàng đầu là Vincafe Biên Hoà, Nescafe, G7 của Trung Nguyên, Moment của Vinamilk và một số nhãn hàng khác....
Vâng, có một thương hiệu đã khó, để giữ và phát triển một thương hiệu còn khó hơn. Dù cho có tốn chi phí, nguồn lực thế nào thì công tác nghiên cứu, quảng bá sản phẩm giờ đây cũng được các doanh nghiệp đẩy mạnh làm lợi thế cạnh tranh bền vững hơn nhiều. Tiêu biếu, chúng ta không thể không nhắc tới Tập đoàn Trung Nguyên, có một “thương hiệu Việt”. Chiến lược marketing hiệu quả vẫn là một trong những yếu tố quyết định thành công của thương hiệu nổi tiếng này.
Bởi lý do thời gian và nguồn lực có hạn nên bài tiểu luận của nhóm Light Star chúng em xin dành phần lớn tập trung hướng tới công tác marketing cho sản phẩm cà phê hoà tan G7 Trung Nguyên.
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ra đời vào giữa năm 1996 -Trung Nguyên là 1 nhãn hiệu cà phê non trẻ của Việt Nam, nhưng đã nhanh chóng tạo dựng được uy tín và trở thành thương hiệu cà phê quen thuộc nhất đối với người tiêu dùng cả trong và ngoài nước. Chỉ trong vòng 10 năm, từ một hãng cà phê nhỏ bé nằm giữa thủ phủ cà phê Buôn Mê Thuột, Trung Nguyên đã trỗi dậy thành một tập đoàn hùng mạnh với 6 công ty thành viên: Công ty cổ phần Trung Nguyên, công ty cổ phần cà phê hòa tan Trung Nguyên, công ty TNHH cà phê Trung Nguyên, công ty cổ phần thương mại và dịch vụ G7, công ty truyền thông bán lẻ Nam Việt và công ty liên doanh Vietnam Global Gateway (VGG) với các ngành nghề chính bao gồm: sản xuất, chế biến, kinh doanh trà, cà phê; nhượng quyền thương hiệu và dịch vụ phân phối, bán lẻ hiện đại. Trong tương lai, tập đoàn Trung Nguyên sẽ phát triển với 10 công ty thành viên, kinh doanh nhiều ngành nghề đa dạng.
Đi tiên phong trong việc áp dụng mô hình kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam, hiện nay, Trung Nguyên đã có một mạng lưới gần 1000 quán cà phê nhượng quyền trên cả nước và 8 quán ở nước ngoài như: Mĩ, Nhật, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Ba Lan, Ukraina. Sản phẩm cà phê Trung Nguyên và cà phê hòa tan G7 đã được xuất khẩu đến 43 quốc gia trên thế giới với các thị trường trọng điểm như Mĩ, Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Nguyên cũng đã xây dựng được một hệ thống hơn 1000 cửa hàng tiện lợi và trung tâm phân phối G7Mart trên toàn quốc.
Khi Công ty cà phê Trung Nguyên quyết định dấn bước vào lĩnh vực cà phê hòa tan, không ít người bày tỏ sự lo ngại không sớm thì muộn mặt hàng G7 của Trung Nguyên sẽ nhanh chóng bị đè bẹp bởi các “đại gia” đã sớm ổn định thị phần tại Việt Nam. Nhưng thực tế, với chiến lược marketing tương đối bài bản, Trung Nguyên đã mang lại một bức tranh thị trường hoàn toàn khác.
Trước khi G7 nhập cuộc, thị trường cà phê hòa tan trong nước chiếm khoảng 130,75 tỷ đồng/năm, trong đó Nescafe dẫn đầu với 55,95% thị phần, Vinacafe chiếm 38,45% thị phần, số còn lại chia nhỏ cho nhiều loại cà phê hòa tan nhập khẩu và của các doanh nghiệp khác.
Năm 2004, doanh số của thị trường này vượt lên hơn 154 tỷ đồng. Cũng thời điểm này, thị trường cà phê hòa tan ngày càng sôi động. “Chiếc bánh” cà phê hoà tan đã có thêm người tranh và các phần chia trên đó cho thấy cục diện thay đổi rất lớn: Nescafe chỉ còn 39% thị phần, Vinacafe chiếm 31% thị phần và G7 leo đến 27%. Như vậy, từ tháng 11-2003 cho đến tháng 1-2004, G7 đã chiếm 35% thị phần. Từ đây, chúng ta không thể phủ nhận sự nỗ lực, tinh thần quyết tâm làm nên một thương hiệu Việt của tập đoàn này.
Trước khi có G7 của Trung Nguyên, bấy lâu nay người Việt Nam uống cà phê hòa tan theo khẩu vị quốc tế, khác biệt một trời một vực với hương vị của một ly cà phê phin (vốn đã trở thành thức uống đậm đà không thể thiếu trong cuộc sống). Theo chúng tôi được biết, Nescafe bước vào thị trường cà phê hoà tan Việt Nam đã hoàn toàn giữ nguyên hương vị, công thức café trên thế giới. Giờ đây, khi miếng bánh được “chia năm xẻ bảy” nhìn mới nhìn thì Nescafe hoàn toàn không hợp “gu” café đậm vị người Việt chúng ta. Với sự xuất hiện của G7 (thật sự là 100% cà phê Việt Nam, kể cả thương hiệu), đại gia Nestle cũng buộc phải thay đổi cho phù hợp. Thay vì áp đặt khẩu vị quốc tế cho người tiêu dùng Việt như trước thì bây giờ G7 đã buộc đối thủ Nescafe từ bỏ niềm kiêu hãnh của một đại gia quốc tế và áp dụng chiến lược “địa phương hóa” thông điệp và sản phẩm để phù hợp với tình hình.
Tải về bản đầy đủ tại đây
“Thương hiệu cà phê Việt bao giờ xứng với tiềm năng” ??? “ Làm thương hiệu không phải là dễ” ??? Đó là hai trong số rất nhiều những câu hỏi, những suy nghĩ băn khoăn của mỗi người dân Việt khi nhắc đến ngành nông sản cà phê nước nhà. Xuất phát từ mâu thuẫn thực tiễn, Việt Nam là nước đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê trên thế giới, nhưng giá trị xuất khẩu của chúng ta lại rất thấp. Hay chúng ta thấy việc ra đời hàng loạt sản phẩm cà phê trên thị trường thực chất mới chỉ là nhãn hiệu sản phẩm. Từ nhãn hiệu đến phát triển một thương hiệu là một vấn đề đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính, con người, chiến lược kinh doanh, tiếp thị hiệu quả…Quả thực, bài toán để có thương hiệu Việt khẳng định trên thị trường quốc tế vẫn còn vô cùng khó.
Bên cạnh đó, theo kết quả của nhiều cuộc điều tra, thị trường cà phê Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng. Tiêu biểu như theo Hiệp hội cà phê thế giới, sản lượng tiêu thụ cà phê nội địa của Việt Nam chiếm khoảng 5% (năm 2009), còn rất thấp so với mức tiêu thụ 25,16% của các quốc gia sản xuất cà phê trên thế giới Mặt khác, Việt Nam là cường quốc cà phê thứ 2 trên thế giới nhưng thực tế chưa có nhiều sản phẩm chế biến từ cà phê được giới thiệu trên thị trường. Do vậy thị trường này còn rất thu hút các doanh nghiệp trong nước lại đẩy mạnh đầu tư xây dựng thương hiệu trên thị trường sản phẩm cà phê nói chung.
Ngoài ra, theo cuộc khảo sát của Công ty Nghiên cứu thị trường Euromonitor, thị trường cà phê hòa tan Việt Nam tăng trưởng mạnh trong những năm trở lại đây, bình quân 7,9%/năm trong giai đoạn 2003-2008 và được dự báo sẽ tăng trưởng 10,5%/năm trong giai đoạn 2008-2013. Chính vì thế, các nhà sản xuất cà phê hòa tan trong nước đã không tiếc kinh phí đầu tư cũng như quảng bá sản phẩm của mình để chiếm lĩnh thị trường. Thị trường cà phê hoà tan Việt Nam hiện nay thị phần chủ yếu của thương hiệu chính: hàng đầu là Vincafe Biên Hoà, Nescafe, G7 của Trung Nguyên, Moment của Vinamilk và một số nhãn hàng khác....
Vâng, có một thương hiệu đã khó, để giữ và phát triển một thương hiệu còn khó hơn. Dù cho có tốn chi phí, nguồn lực thế nào thì công tác nghiên cứu, quảng bá sản phẩm giờ đây cũng được các doanh nghiệp đẩy mạnh làm lợi thế cạnh tranh bền vững hơn nhiều. Tiêu biếu, chúng ta không thể không nhắc tới Tập đoàn Trung Nguyên, có một “thương hiệu Việt”. Chiến lược marketing hiệu quả vẫn là một trong những yếu tố quyết định thành công của thương hiệu nổi tiếng này.
Bởi lý do thời gian và nguồn lực có hạn nên bài tiểu luận của nhóm Light Star chúng em xin dành phần lớn tập trung hướng tới công tác marketing cho sản phẩm cà phê hoà tan G7 Trung Nguyên.
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ra đời vào giữa năm 1996 -Trung Nguyên là 1 nhãn hiệu cà phê non trẻ của Việt Nam, nhưng đã nhanh chóng tạo dựng được uy tín và trở thành thương hiệu cà phê quen thuộc nhất đối với người tiêu dùng cả trong và ngoài nước. Chỉ trong vòng 10 năm, từ một hãng cà phê nhỏ bé nằm giữa thủ phủ cà phê Buôn Mê Thuột, Trung Nguyên đã trỗi dậy thành một tập đoàn hùng mạnh với 6 công ty thành viên: Công ty cổ phần Trung Nguyên, công ty cổ phần cà phê hòa tan Trung Nguyên, công ty TNHH cà phê Trung Nguyên, công ty cổ phần thương mại và dịch vụ G7, công ty truyền thông bán lẻ Nam Việt và công ty liên doanh Vietnam Global Gateway (VGG) với các ngành nghề chính bao gồm: sản xuất, chế biến, kinh doanh trà, cà phê; nhượng quyền thương hiệu và dịch vụ phân phối, bán lẻ hiện đại. Trong tương lai, tập đoàn Trung Nguyên sẽ phát triển với 10 công ty thành viên, kinh doanh nhiều ngành nghề đa dạng.
Đi tiên phong trong việc áp dụng mô hình kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam, hiện nay, Trung Nguyên đã có một mạng lưới gần 1000 quán cà phê nhượng quyền trên cả nước và 8 quán ở nước ngoài như: Mĩ, Nhật, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Ba Lan, Ukraina. Sản phẩm cà phê Trung Nguyên và cà phê hòa tan G7 đã được xuất khẩu đến 43 quốc gia trên thế giới với các thị trường trọng điểm như Mĩ, Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Nguyên cũng đã xây dựng được một hệ thống hơn 1000 cửa hàng tiện lợi và trung tâm phân phối G7Mart trên toàn quốc.
Khi Công ty cà phê Trung Nguyên quyết định dấn bước vào lĩnh vực cà phê hòa tan, không ít người bày tỏ sự lo ngại không sớm thì muộn mặt hàng G7 của Trung Nguyên sẽ nhanh chóng bị đè bẹp bởi các “đại gia” đã sớm ổn định thị phần tại Việt Nam. Nhưng thực tế, với chiến lược marketing tương đối bài bản, Trung Nguyên đã mang lại một bức tranh thị trường hoàn toàn khác.
Trước khi G7 nhập cuộc, thị trường cà phê hòa tan trong nước chiếm khoảng 130,75 tỷ đồng/năm, trong đó Nescafe dẫn đầu với 55,95% thị phần, Vinacafe chiếm 38,45% thị phần, số còn lại chia nhỏ cho nhiều loại cà phê hòa tan nhập khẩu và của các doanh nghiệp khác.
Năm 2004, doanh số của thị trường này vượt lên hơn 154 tỷ đồng. Cũng thời điểm này, thị trường cà phê hòa tan ngày càng sôi động. “Chiếc bánh” cà phê hoà tan đã có thêm người tranh và các phần chia trên đó cho thấy cục diện thay đổi rất lớn: Nescafe chỉ còn 39% thị phần, Vinacafe chiếm 31% thị phần và G7 leo đến 27%. Như vậy, từ tháng 11-2003 cho đến tháng 1-2004, G7 đã chiếm 35% thị phần. Từ đây, chúng ta không thể phủ nhận sự nỗ lực, tinh thần quyết tâm làm nên một thương hiệu Việt của tập đoàn này.
Trước khi có G7 của Trung Nguyên, bấy lâu nay người Việt Nam uống cà phê hòa tan theo khẩu vị quốc tế, khác biệt một trời một vực với hương vị của một ly cà phê phin (vốn đã trở thành thức uống đậm đà không thể thiếu trong cuộc sống). Theo chúng tôi được biết, Nescafe bước vào thị trường cà phê hoà tan Việt Nam đã hoàn toàn giữ nguyên hương vị, công thức café trên thế giới. Giờ đây, khi miếng bánh được “chia năm xẻ bảy” nhìn mới nhìn thì Nescafe hoàn toàn không hợp “gu” café đậm vị người Việt chúng ta. Với sự xuất hiện của G7 (thật sự là 100% cà phê Việt Nam, kể cả thương hiệu), đại gia Nestle cũng buộc phải thay đổi cho phù hợp. Thay vì áp đặt khẩu vị quốc tế cho người tiêu dùng Việt như trước thì bây giờ G7 đã buộc đối thủ Nescafe từ bỏ niềm kiêu hãnh của một đại gia quốc tế và áp dụng chiến lược “địa phương hóa” thông điệp và sản phẩm để phù hợp với tình hình.
Tải về bản đầy đủ tại đây